BÀI HỌC HẰNG NGÀY Chủ Nhật, ngày 09 tháng 02, 2025
MÔN HỌC KINH TƯƠNG ƯNG –
SAṂYUTTANIKĀYA
Bài 371. DỨT SẠCH TOÀN BỘ CHẤP THỦ- Kinh Chấm Dứt Thủ Chấp I & II (paṭhamasabbupādānapariyādānasutta). .. ******
Sự chấp thủ là phần tâm lý khó
chuyển đổi của chúng sanh. Thái
độ khư khư chấp chặt đối với thị
hiếu, quan điểm, sự hành trì, và
“cái tôi” là những điều rất khó
gỡ. Phải thấy được tất cả tuỳ
thuộc vào nhiều nhân, nhiều
duyên không thật sự có cốt lõi
trường cữu thì mới tự mình trờ
về với tâm thái rỗng rang vô
chấp. Thấy được nhân duyên kết
hợp thì mới thấy sự mong manh.
Một bữa cơm ngon không phải chỉ
thức ăn ngon mà còn bụng có đói,
người cùng ăn có vui, thời điểm
có thích hợp… Thấy được nhiều
yếu tố thì thấy được tính tương
đối.
Bản dịch của Hoà thượng Thích
Minh Châu.
61.IX. Ðược Chấm Dứt (1)
(Pariyàdinnam) (S.iv,33)
1) ...
2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ
thuyết cho các Ông về pháp đưa
đến chấm dứt tất cả chấp thủ.
Hãy lắng nghe.
3) Và thế nào, này các Tỷ-kheo,
là pháp đưa đến chấm dứt tất cả
chấp thủ?
4) Do duyên con mắt và các sắc
khởi lên nhãn thức. Do ba pháp
này hợp lại có xúc. Do duyên xúc
có thọ. Thấy vậy, này các
Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử
nhàm chán đối với mắt, nhàm chán
đối với các sắc, nhàm chán đối
với nhãn thức, nhàm chán đối với
nhãn xúc, nhàm chán đối với thọ.
Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do
ly tham, vị ấy được giải thoát.
Nhờ giải thoát, vị ấy biết rõ:
"Ta đã chấm dứt chấp thủ".
5-8) ... tai... mũi... lưỡi...
thân...
9) Và do duyên ý và các pháp
khởi lên ý thức. Do ba pháp này
hợp lại có xúc. Do duyên xúc có
thọ. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo,
bậc Ða văn Thánh đệ tử nhàm chán
đối với ý, nhàm chán đối với các
pháp, nhàm chán đối với ý thức,
nhàm chán đối với ý xúc, nhàm
chán đối với thọ. Do nhàm chán,
vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy
được giải thoát. Nhờ giải thoát,
vị ấy biết rõ: "Ta đã chấm dứt
chấp thủ".
62.X. Ðược Chấm Dứt (2)
(S.iv,34) 2) -- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết cho các Ông về pháp đưa đến chấm dứt tất cả chấp thủ. 3) Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp đưa đến chấm dứt tất cả chấp thủ? 4) Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, mắt là thường hay vô thường? -- Là vô thường, bạch Thế Tôn. -- Cái gì vô thường là khổ hay lạc? -- Là khổ, bạch Thế Tôn. -- Cái gì vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, có hợp lý chăng nếu quán cái ấy là: "Cái này là của tôi. Cái này là tôi. Cái này là tự ngã của tôi"? -- Thưa không, bạch Thế Tôn. -- Sắc... Nhãn thức... Nhãn xúc... Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì... 5-8) Tai... Mũi... Lưỡi... Thân... 9) Ý... Các pháp... Ý thức... Ý xúc... Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy là thường hay vô thường... -- Là vô thường, bạch Thế Tôn....
10) -- Thấy vậy, này các
Tỷ-kheo, bậc Ða văn Thánh đệ tử
nhàm chán đối với mắt, nhàm chán
đối với các sắc, nhàm chán đối
với nhãn thức, nhàm chán đối với
nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc khởi
lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất
khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối
với cảm thọ ấy...
Ðối với tai... Ðối với mũi...
Ðối với lưỡi... Ðối với thân...
Vị ấy nhàm chán đối với ý, nhàm
chán đối với các pháp, nhàm chán
đối với ý thức, nhàm chán đối
với ý xúc. Do duyên ý xúc khởi
lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất
khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối
với cảm thọ ấy. Do nhàm chán, vị
ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy
được giải thoát. Trong sự giải
thoát, trí khởi lên biết rằng:
"Ta đã giải thoát". Vị ấy biết
rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã
thành, những việc nên làm đã
làm, không còn trở lui trạng
thái này nữa".
11) Ðây, này các Tỷ-kheo, là
pháp đưa đến chấm dứt tất cả
chấp thủ.
Chú Thích
Có bốn loại chấp thủ (catunnampi
upādānānaṃ):
1.
Dục thủ (kāmupādāna) là sự bám
víu do thị dục.
2.
Kiến thủ (diṭṭhupādāna) là sự
bám víu vào quan điểm hay cái
nhìn.
3.
Giới cấm thủ (sīlabbatupādāna)
là sự bám víu vào những hành trì
vô bổ đặc biệt là mê tín dị
đoan.
4.
Ngã luận
thủ (attavādupādāna) là
sự bám víu vào sự tự thị cả
nhân.
Sự hiểu biết này đạt được thông
qua ba loại trí tuệ (tīhi
pariññāhi):
1.
Ñāta-pariññā: Tri kiến tổng quan
là sự hiểu biết chung.
2.
Tīraṇa-pariññā: Trí tuệ phân
tích là sự hiểu biết những yếu
tố kết hợp
3.
Pahāna-pariññā: Trí tuệ đoạn trừ
(phiền não liên hệ pháp ấy)
Chấp thủ là sự bám chấp rất khó
buông bỏ. Sự từ bỏ chỉ đến từ sự
hiểu biết sâu sắc với đầy đủ
ngọn ngành.
Khi nói “liễu tri tất cả” có
nghĩa là sự thấy biết tường tận
các phương diện căn, cảnh, thức,
xúc, thọ theo duyên khởi “do cái
nầy có nên cái kia có” tạo thành
tác động dây chuyền. Như một
người vướng mắc vào hình ảnh nào
đó do mắt thấy cảnh sanh tâm ái
chấp; một khi không tiếp tục
(với nhãn xúc) thì cảm thọ cũng
mờ nhạt dần. Không có cái còn
mãi mà tuỳ thuộc ở nhiều nhân,
nhiều duyên để tồn tại. Nhân và
duyên ở đây có yếu tố bên trong
lẫn bên ngoài. Thấy được sự mong
manh, tụ tán giả hợp, biến đổi
vô chừng sẽ giúp hành giả bào
mòn sự chấp thú.
Sớ Giải
53-62. avijjāvagge avijjāti
catūsu saccesu aññāṇaṃ. vijjāti
arahattamaggavijjā. aniccato
jānato passatoti
dukkhānattavasenāpi jānato
passato pahīyatiyeva, idaṃ pana
aniccavasena kathite
bujjhanakapuggalassa ajjhāsayena
vuttaṃ. eseva nayo sabbattha.
api cettha saṃyojanāti dasa
saṃyojanāni. āsavāti cattāro
āsavā. anusayāti satta anusayā.
sabbupādānapariññāyāti sabbesaṃ
catunnampi upādānānaṃ tīhi
pariññāhi parijānanatthāya.
pariyādānāyāti khepanatthāya.
sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Chú thích các bài kinh từ số 53
đến 62
"Avijjā" (Vô minh)
Là sự không biết về bốn sự thật
(catūsu saccesu aññāṇaṃ),
tức là không hiểu rõ Tứ Diệu Đế
(Khổ, Tập, Diệt, Đạo).
"Vijjā" (Trí tuệ):
Ở đây đề cập đến trí tuệ của tứ
đạo a la hán (arahattamaggavijjā),
tức là sự giác ngộ hoàn toàn.
"Aniccato jānato passato" (Biết
và thấy theo khía cạnh vô
thường)
Khi biết và thấy vô thường, thì
vô minh được đoạn trừ và trí tuệ
sinh khởi. Mặc dù vô minh cũng
có thể được từ bỏ khi thấy sự
khổ (dukkha) và vô ngã (anatta),
nhưng ở đây nhấn mạnh vào sự vô
thường (anicca), vì đó là
cách dễ làm thức tỉnh một người
chưa giác ngộ (bujjhanakapuggala).
"Saṃyojanā" (Các kiết sử)
Đây là mười kiết sử (dasa
saṃyojanāni), "Āsavā" (Các
lậu hoặc)
Gồm bốn loại lậu hoặc (cattāro
āsavā):"Anusayā" (Các tùy
miên – phiền não tiềm ẩn) Gồm
bảy loại tùy miên (satta
anusayā):Sabbupādānapariññāyā"
(Liễu tri các thủ) Gồm bốn loại
chấp thủ (catunnampi
upādānānaṃ):"Pariyādānāya"
(Sự diệt tận hoàn toàn) có nghĩa
là sự tiêu diệt hoàn toàn (khepanatthāya),
tức là đoạn trừ tất cả các kiết
sử và lậu hoặc.
"Eseva nayo sabbattha" (Cũng
theo cách này ở mọi chỗ khác)
Điều này có nghĩa là nguyên tắc
này được áp dụng cho tất cả các
căn và pháp khác.
"Sesaṃ sabbattha uttānameva"
(Phần còn lại đều rõ ràng) Câu
này có nghĩa rằng các bài kinh
còn lại đã quá rõ ràng và không
cần giải thích thêm.
Tỳ khưu Giác Đẳng biên soạn giáo trình
Bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu.
I. Phẩm Vô Minh
-ooOoo- |